Bài nguyên gốc College is Dying, Design Your Own Education

Tôi không đề cập đến những trường đại học, nơi mà có thể vẫn tồn tại trong vài thập kỷ tới. Điều tôi đang đề cập là khuôn mẫu, là mô hình đào tạo đại học.

Cách học đại học hiện này:

  1. Chọn một ngành học.
  2. Đi học với sự linh hoạt, nhiều tuỳ chọn cộng thêm hàng chục ngàn USD.
  3. Đầu tư cho 4 năm trong khi có rất ít bằng chứng cho thấy ngành học đã chọn có sát với thực tế hay không.
  4. Vạch ra một kế hoạch chủ đạo chỉ ra những gì đáng học trong ngành đó.
  5. Sẽ có những giáo viên kèm bạn trong lớp học để lựa chọn.
  6. Tập trung vào lý thuyết hơn là thực hành, thuộc lòng hơn là đi sâu giải quyết vấn đề.
  7. Học từ mọi người nhưng không cọ xát thực tế.
  8. Dùng bằng đại học để cho mọi người thấy bạn đã học được điều gì đó.

Mặc cho những vấn đề nêu trên, học Đại học vẫn được coi là lựa chọn khôn ngoan cho mọi thế hệ từ xưa đến nay. Tuy nhiên, 15 năm trở lại đây, nhiều câu hỏi được đặt ra hơn khi quyết định lựa chọn như vậy do 2 xu hướng: Giá cả ngày càng tăng, giá trị ngày càng giảm.

Hãy bắt đầu với ý thứ nhất.

Tăng học phí và lựa chọn tài chính

Trong năm học 1987-1988, mức học phí trung bình tại các trường công lập khoảng 3190$ (có điều chỉnh theo mức ảnh hưởng của đồng Dollar hiện nay).

Năm học 2017-2018, mức học phí trung bình là 9970$, tăng 213%.

Nếu bạn chọn một trường tư, sẽ phải trả nhiều hơn - trung bình là 34,740$ cho năm học 2017-2018.

Average tuition between 1980 and 2015 (inflation-adjusted). Source: National Center for Education Statistics.
Average tuition between 1980 and 2015 (inflation-adjusted). Source: National Center for Education Statistics.

Ngày càng có nhiều hơn sinh viên ngập trong nợ nần để trang trải tiền học - khoảng 70% sinh viên tốt nghiệp đại học sau khi ra trường vẫn gánh một khoản nợ, và tổng số tiền nợ trung bình của một sinh viên là một con số tương đối lớn - 39,400$.

Mọi người thường đánh giá thấp thiệt hại từ những khoản nợ ban đầu của bản thân. Đó không phải là vấn đề tiền bạc, đó là lựa chọn tài chính.

Thứ đáng giá nhất mà người trẻ có được là lựa chọn - địa điểm, nghề nghiệp, giáo dục - tất cả đều đặt trên bàn giấy.

Khi bắt đầu phải trả các khoản nợ lúc ra trường, những bạn trẻ sẽ có ít lựa chọn cho những việc như:

  • Thực tập không lương dưới sự hướng dẫn nhiệt tình của ai đó.
  • Tận hưởng 6 tháng đi du lịch ở Đông Nam Á. 
  • Bắt đầu một kế hoạch kinh doanh.
  • Theo đuổi đam mê khám phá một điều gì đó mới mẻ.

Và vô số những nỗ lực mà một người có thể thực hiện ở tuổi đôi mươi để tích luỹ kinh nghiệm sống và nắm bắt các cơ hội.

Và không chỉ những sinh viên tốt nghiệp phải trang trải các khoản tiền, cha mẹ họ cũng phải gánh chịu những khoản chi phí ngày càng tăng trong trường đại học.

Đó là một sự dịch chuyển lớn trong tầng lớp trung lưu, những người đã "cày cuốc" kiếm từng đồng tiết kiệm để đi học, tiền của họ lại di chuyển sang những công chức, nhân viên bất động sản, chấp nhận về mặt nguyên tắc rằng sẽ không tồn tại những thứ khác (như nghiên cứu giới tính, văn học so sánh, hoặc kinh tế quốc tế), và những "kẻ ăn bám" khác. Ở Mỹ, chúng tôi có một định chế về tín dụng sinh viên có thể tự động chuyển những khoản nợ cho những đối tượng nêu trên.

Chúng ta có thể bào chữa cho việc để xảy ra gánh nặng tài chính này? Điều này còn giá trị không?

Lạm phát bằng cấp và tín hiệu giảm

Trong khi học phí đại học đã tăng lên gấp ba lần trong 30 năm qua, giá trị của bằng cấp lại giảm do "lạm phát bằng cấp". Khi ngày càng nhiều người có bằng cấp, những lĩnh vực độc quyền ngày càng trở nên phổ biến hơn.

Bryan Caplan, viết trong quyển "The Case Against Education", chỉ ra rằng 80% giá trị bằng cấp bắt nguồn từ những cử nhân đến nhà tuyển dụng, mà không phải bắt nguồn từ hiểu biết và kinh nghiệm có được từ việc tiếp thu chúng.

Caplan liệt kê ra ba đặc điểm đặc trưng của một cử nhân - thông minh, kiên trì và tương thích - tất cả đều đòi hỏi bởi nhà tuyển dụng.

Vấn đề là phát tín hiệu là một trò chơi mà tổng lợi ích bằng 0; kiếm một tấm bằng đại học không gửi đi một tín hiệu mạnh nếu nhiều người khác cũng có.

Bên cạnh đó, liệu chúng ta có nên bỏ ra 4 năm học buồn chán chỉ để chứng minh chúng ta là những người kiên trì? Không có cách nào khác để phát tín hiệu ngoại trừ ký ức thực tế chúng ta sẽ quên trong 1 năm?

Ngày nay, hơn lúc nào hết, các phương tiện để học vô cùng nhiều. Những bước tiến quan trọng trong công nghệ và một nền kinh tế mới được tạo ra bởi internet đã mở cánh cửa vào một mô hình đào tạo mới - nơi mỗi cá nhân chịu trách nhiệm với chính sự phát triển của bản thân mình, và con đường đã chọn không chỉ đòi hỏi sự thông minh, kiên trì, mà còn cần sự tò mò, tham vọng và trách nhiệm với bản thân.

Mô hình cũ và mới

Trong phần mở đầu, tôi đã liệt kê ra 8 đặc trưng của mô hình cũ. Trong phần dưới đây, tôi sẽ so sánh mỗi đặc trưng của mô hình cũ với mô hình mới.

#1

Mô hình cũ: Chọn một ngành học.

Mô hình mới: Kết hợp kiến thức từ nhiều môn học khác nhau để tạo nên một khối kiến thức duy nhất và mạnh mẽ.

#2

Mô hình cũ:  Đi học với sự linh hoạt, nhiều tuỳ chọn cộng thêm hàng chục ngàn USD.

Mô hình mới: Giữ các tuỳ chọn mở, ở một nơi độc lập và tránh nợ nần.

#3

Mô hình cũ: Đầu tư cho 4 năm học trong khi có rất ít bằng chứng cho thấy ngành học đã chọn có sát với thực tế hay không.

Mô hình mới: Chỉ cần học một vài tháng, xem xét, đánh giá lại sử dụng kinh nghiệm trong tay với lĩnh vực đã chọn.

#4

Mô hình cũ: Vạch ra một kế hoạch chủ đạo chỉ ra những gì đáng học trong ngành đó.

Mô hình mới: Tự xây dựng kế hoạch học tập và cập nhật liên tục theo sự phát triển của thế giới bên ngoài.

#5

Mô hình cũ: Sẽ có những giáo viên kèm bạn trong lớp học để lựa chọn.

Mô hình mới: Chọn giáo viên tốt nhất mà bạn có thể tìm được cho mỗi chủ đề học tập.

#6

Mô hình cũ: Tập trung vào lý thuyết hơn là thực hành, thuộc lòng hơn là đi sâu giải quyết vấn đề.

Mô hình mới: Tập trung vào thực hành và giải quyết những vấn đề thực sự (nhưng vẫn đi kèm với những lý thuyết có giá trị).

#7

Mô hình cũ:  Học từ mọi người nhưng không cọ xát thực tế.

Mô hình mới: Học từ những người có uy tín và định hướng cho thành công của bạn.

#8

Mô hình cũ: Dùng bằng đại học để cho mọi người thấy bạn đã học được điều gì đó.

Mô hình mới: Cho mọi người thấy khả năng của bạn trong công việc, không phải dùng tấm bằng đại học.